Một số nội dung còn bất cập qua 04 năm thực hiện Luật Tố cáo
Quyền tố cáo của công dân đã có một bước phát triển rất lớn so với các quy định pháp luật trước khi ban hành Luật Tố cáo năm 2011 và đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và đảm bảo chắc chắn để người tố cáo yên tâm thực hiện quyền của mình góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua 04 năm thực hiện Luật Tố cáo vẫn còn một số nội dung cần làm rõ để việc thực hiện các quy định này đi vào đời sống xã hội, có hiệu lực trên thực tế như sau
Quyền tố cáo của công dân đã có một bước phát triển rất lớn so với các quy định pháp luật trước khi ban hành Luật Tố cáo năm 2011 và đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và đảm bảo chắc chắn để người tố cáo yên tâm thực hiện quyền của mình góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua 04 năm thực hiện Luật Tố cáo vẫn còn một số nội dung cần làm rõ để việc thực hiện các quy định này đi vào đời sống xã hội, có hiệu lực trên thực tế như sau:
Thứ nhất, về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo. Luật Tố cáo quy định chỉ có công dân mới có quyền tố cáo, còn các cơ quan, tổ chức nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì cũng không có quyền tố cáo. Trong trường hợp này để có thể tiếp tục thực hiện quyền tố cáo thì phải nhân danh cơ quan, tổ chức hay có cá nhân trực tiếp đứng ra để thực hiện quyền tố cáo của mình thì việc tố cáo vẫn được thụ lý, giải quyết. Luật Tố cáo quy định “tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật …”. Theo nội dung quy định trên thì vấn đề quan trọng là nội dung tố cáo, tố cáo có cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý. Việc quy định về chủ thể tố cáo để xử lý khi tố cáo sai là chưa hợp lý, không khuyến khích việc tố cáo. Mặt khác, việc xử lý người tố cáo sai thì Luật Tố cáo chưa quy định cụ thể rõ ràng nên khó khăn trong xử lý. Người tố cáo là cá nhân, đôi khi là lãnh đạo tham gia hoạt động quản lý nhà nước còn có tâm lý sợ ảnh hưởng đến quyền lợi, sợ bị trù dập nên cũng e ngại trong việc tố cáo, một phần cũng do việc bảo vệ thông tin, bí mật cho người tố cáo chưa được triệt để. Luật Tố cáo chưa quy định rõ chế tài cụ thể, quy trình, thủ tục xử lý hoặc có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với trường hợp người bị tố cáo không phối hợp trong quá trình giải quyết tố cáo, cố tình giải trình không rõ ràng, giải trình nhiều lần để kéo dài thời gian hoặc tự ý hủy, sửa đổi hồ sơ, chứng cứ có liên quan.
Thứ hai, về giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Việc quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo đã giúp công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật gửi đúng cơ quan có thẩm quyền, hạn chế trường hợp đơn tố cáo gửi vượt cấp, chuyển lòng vòng. Điều 31 Luật Tố cáo đã quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực dựa trên thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính nhằm tạo điều kiện để việc giải quyết tố cáo, xử lý tố cáo có thể được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: Đã được pháp luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng, giúp cơ quan tham mưu dễ dàng áp dụng để giải quyết tố cáo đúng quy định pháp luật, tránh việc giải quyết, xử lý chồng chéo đối với các trường hợp cùng thuộc nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo trong từng lĩnh vực. Luật Tố cáo quy định người giải quyết tố cáo có trách nhiệm công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo: Đã quy định cụ thể trách nhiệm của người giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, thực tế áp dụng khó khăn vì không phải trường hợp nào người giải quyết tố cáo cũng tham dự công khai kết luận nội dung tố cáo.
Thứ ba, về bảo vệ người tố cáo, bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết tố cáo thường là những tập thể với nhiều bộ phận khác nhau cho nên nếu cán bộ, công chức và những người có liên quan chưa được quán triệt sâu sắc, nâng cao ý thức về việc giữ gìn bí mật thông tin của người tố cáo thì khó có thể được bảo đảm; Quy định “khi có căn cứ” cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe; xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm; hoặc bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi làm việc... của bản thân người tố cáo và người thân thích của người tố cáo là rất khó thực hiện. Bởi vì, quy định “có căn cứ” là một nội dung mang tính chất cảm tính. Trong khi không có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể, liệt kê cụ thể hành vi hoặc định lượng ở mức độ, biểu hiện ở mức độ như thế nào thì được xem là “có căn cứ”.
Thứ tư, về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo. Luật Tố cáo quy định “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết”. Tuy nhiên, thực tế với nhiều vụ việc cụ thể, việc áp dụng, xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo theo quy định chưa thống nhất, do xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo tại thời điểm tố cáo hay tại thời điểm người bị tố cáo thực hiện hành vi bị tố cáo (như xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong trường hợp người bị tố cáo đã chuyển công tác; cơ quan, tổ chức, đơn vị có người bị tố cáo công tác đã giải thể hoặc sáp nhập sang đơn vị mới; cán bộ, công chức đã về hưu nhưng bị tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật lúc đương nhiệm hoặc trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức tại thời điểm cán bộ, công chức đó giữ chức vụ thấp nhưng tại thời điểm tố cáo, cán bộ, công chức này đã giữ chức vụ cao hơn). Ví dụ như người bị tố cáo là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã được bổ nhiệm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì người có thẩm quyền giải quyết tố cáo là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hay thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Công tác giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên được quy định tại Điều 44 Luật Tố cáo. Tuy nhiên, chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục các bước tiến hành giám sát nên việc giám sát gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, về khen thưởng và xử lý hành vi vi phạm. Cần quy định cụ thể hơn về hình thức, tiêu chuẩn, hồ sơ, thủ tục và mức khen thưởng so với Luật Tố cáo. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện vẫn còn một số hạn chế, khó khăn. Bởi vì, thông thường một vụ việc thì có nhiều nội dung, trong đó không phải tất cả các nội dung tố cáo đều đúng mà có nội dung tố cáo đúng, nội dung tố cáo sai. Do đó, việc cân nhắc khen thưởng và thời điểm, cách thức tổ chức khen thưởng đôi lúc cũng còn có ý kiến khác nhau. Việc xử lý hành vi vi phạm các quy định pháp luật về tố cáo theo quy định tại Điều 46, Điều 47 và Điều 48 Luật Tố cáo thiếu các quy định cụ thể về việc xử phạt vi phạm trong lĩnh vực tố cáo./.
Các tin khác
- VAI TRÒ CÔNG TÁC GIÁM SÁT, THẨM ĐỊNH VÀ XỬ LÝ SAU THANH TRA (03/02/2025)
- MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC XỬ LÝ SAU THANH TRA (12/12/2024)
- Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (13/01/2020)
- Thực hiện kết luận thanh tra: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (15/11/2018)
- Nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh tra hành chính (25/04/2017)
- Quy định về xét tặng kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp Thanh tra" (24/04/2017)
- Quy định về tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp (24/04/2017)
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giám sát đoàn Thanh tra (31/03/2017)
- Một số kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện Luật Tố cáo qua 04 năm thực hiện (03/11/2016)
- Ủy quyền trong Luật Tố tụng hành chính và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (04/10/2016)
Trang đầu 1 2 Trang cuối
- LỊCH LÀM VIỆC của Ban Lãnh đạo Thanh tra thành phố (Từ ngày 31/3/2025 đến ngày 06/4/2025)
- LỊCH LÀM VIỆC của Ban Lãnh đạo Thanh tra thành phố (Từ ngày 24/3/2025 đến ngày 30/3/2025)
- LỊCH LÀM VIỆC của Ban Lãnh đạo Thanh tra thành phố (Từ ngày 17/3/2025 đến ngày 23/3/2025)
- LỊCH LÀM VIỆC của Ban Lãnh đạo Thanh tra thành phố (Từ ngày 10/3/2025 đến ngày 16/3/2025)
- LỊCH LÀM VIỆC của Ban Lãnh đạo Thanh tra thành phố (Từ ngày 03/3/2025 đến ngày 09/3/2025)